Kế hoạch triển khai các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
I/ Đặc điểm tình hình:
1/ Thực trạng:
Hội nghị công bố bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2012 ngày 14/3/2013 vừa qua đánh giá thành phố Hồ Chí Minh đứng hạng thứ 13/64 tỉnh thành của cả nước và được xếp trong nhóm điều hành tốt của bảng xếp hạng, vượt 7 bậc so với năm 2011. Trong đó, lĩnh vực tiếp cận đất đai tăng được 3 bậc từ hạng 43 năm 2011 (điểm số là 6.12) lên hạng 40 năm 2012 (điểm số là 6.17) so với thành phố có chỉ số thành phần cao nhất năm 2012 của cả nước là Kiên Giang với điểm số là 8.84. Điều đó chứng tỏ những chính sách cũng như những giải pháp trong công tác quản lý về đất đai có nhiều tác động tích cực, cụ thể là những cải cách trong thủ tục hành chính, cơ chế chính sách đất đai phù hợp.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng kết quả này không đồng nghĩa với việc môi trường đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh đã thực sự hoàn thiện và hấp dẫn với các nhà đầu tư. Bằng chứng là vẫn còn có một số chỉ số thành phần cải thiện không đáng kể trong đó có chỉ số Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất xếp loại trung bình và thấp so với cả nước. Chỉ số này nhằm đo lường về hai khía cạnh của vấn đề đất đai mà doanh nghiệp quan tâm, đó là việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và doanh nghiệp có thấy yên tâm và được đảm bảo về sự ổn định khi có được mặt bằng kinh doanh hay không.
Chỉ số Tiếp cận đất đai được xác định dựa trên các tiêu chí thành phần như: tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá về nguy cơ bị thu hồi mặt bằng sản xuất kinh doanh, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng giá trị bồi thường cho mảnh đất bị thu hồi là thỏa đáng và tỷ lệ mà doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai và tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá về từng khó khăn cụ thể (quy hoạch đất đai kém, thiếu quỹ đất sạch, giá đất theo quy định nhà nước cao, giá thuê mặt bằng kinh doanh cao, giải phóng mặt bằng chậm, thủ tục hành chính thuê mua đất đai phức tạp).
Đối với nguy cơ rủi ro bị thu hồi đất, năm 2012, 61% doanh nghiệp nhận định tính ổn định của mặt bằng kinh doanh của họ chỉ ở mức trung bình, tức là tỉ lệ doanh nghiệp lo ngại (rủi ro bị thu hồi) đã tăng gấp đôi so với năm 2008. Đồng thời, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng sẽ được bồi thường thỏa đáng nếu mặt bằng kinh doanh bị thu hồi hiện giảm từ 41% năm 2007 xuống còn 36% năm 2012.
Trong những khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt thì việc giải phóng mặt bằng chậm chiếm tỷ lệ cao nhất (42,38%), kế đến là do việc quy hoạch đất đai kém và giá thuê mặt bằng kinh doanh cao (25.58%).
2/ Những điểm mạnh, điểm yếu:
Ở khía cạnh tích cực, chỉ số tiếp cận đất đai năm nay có vẻ dễ dàng hơn, số doanh nghiệp gặp cản trở trong tiếp cận đất đai đã giảm nhiều do có nhiều cải thiện về thủ tục hành chính. Nhiều văn bản pháp luật đất đai mới ban hành cũng góp phần củng cố quản lý đất đai. Việc công khai các quy trình, thủ tục hành chính trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp doanh nghiệp dễ dàng theo dõi việc giải quyết hồ sơ cũng như ít gặp khó khăn trong việc nộp hồ sơ đầu vào. Việc áp dụng cơ chế một cửa, một cửa liên thông và giải quyết hồ sơ theo quy trình ISO đã làm giảm thiểu tiến trình giải quyết hồ sơ tồn đọng, kéo dài gây khó khăn cho doanh nghiệp cũng như những nhà đầu tư.
Tuy nhiên, thực trạng quản lý đất đai trên địa bàn thành phố và những biến động của thị trường cũng tồn tại một số khó khăn không nhỏ, cụ thể như sau:
- Sự đóng băng thị trường bất động sản đã làm tăng quỹ đất và giảm giá bán, giá cho thuê quyền sử dụng đất trên thị trường.
- Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện nay chưa bảo đảm chất lượng theo yêu cầu do nhiều nguyên nhân như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là cho mục đích phi nông nghiệp, chưa có nội dung sử dụng đất hoặc có nhưng không cụ thể vị trí, diện tích loại đất hiện trạng, thời gian thực hiện. Một vấn đề thường gặp là khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đưa ra nhu cầu quá cao hoặc không đầy đủ so với yêu cầu, khả năng và giải pháp thiếu thực tế. Thế nên có nơi mới vào đầu kỳ quy hoạch, kế hoạch đã thấy thiếu, cuối kỳ không thực hiện được hoặc đạt rất thấp, dẫn đến tình trạng quy hoạch treo, tác động không tốt đến nhiều mặt kinh tế - xã hội.
- Về xác định giá đất hàng năm có tiến bộ hơn, nhưng cũng cho thấy những bất hợp lý cần được tháo gỡ như khung giá các loại đất do Nhà nước quy định chưa phù hợp với giá thị trường nên chưa bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước -người sử dụng đất - nhà đầu tư. Trong khi đó, chưa có cơ chế xác định giá đất rõ ràng, chưa có cơ chế để theo dõi, cập nhật giá đất biến động trên thị trường.
- Việc quy định trình tự thủ tục giải quyết các hồ sơ đất đai theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP, cấp Giấy chứng nhận theo Nghị định 88/2009/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn cũng phát sinh một số vướng mắc như việc người kinh doanh bất động sản phải nộp tiền sử dụng đất hai lần.
- Việc đền bù chưa thỏa đáng khi thu hồi đất dẫn đến hiện trạng nhiều dự án treo kéo dài và không triển khai được, gây khó khăn cho nhà đầu tư và cho cả người dân.
- Tỷ lệ cấp GCNQSDĐ trên địa bàn thành phố không đạt 100% như kế hoạch của Bộ Tài nguyên và Môi trường do thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, đa dạng ngành nghề, phức tạp và nhiều nơi việc triển khai cấp giấy cần phải xin ý kiến và chủ trương của thành phố.
3/ Nguyên nhân:
Sự đền bù không thỏa đáng trong thu hồi đất tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có mối quan hệ gần gũi với lãnh đạo địa phương và có được thông tin bên trong về kế hoạch sử dụng đất đai, cơ sở hạ tầng. Đặc biệt trong bối cảnh việc tiếp cận các tài liệu, kế hoạch vẫn đang ở trong tình trạng chưa thấy minh bạch thì việc các doanh nghiệp tiếp cận với đất đai gặp nhiều khó khăn hơn.
Một nguyên nhân chính khiến chỉ số PCI của thành phố Hồ Chí Minh thấp hơn các địa phương khác là do khối lượng công việc phải giải quyết trên địa bàn thành phố rất lớn, đa dạng, phức tạp trong khi sự phân công, phân cấp và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở một số lĩnh vực ban hành chậm, thiếu đồng bộ, không ít nội dung còn chồng chéo, bất hợp lý. So với các địa phương khác thì tỷ lệ cấp giấy CNQSDĐ trên thành phố (đạt khoảng 80% năm 2012) vẫn thấp hơn các tỉnh, thành khác do quy mô của thành phố lớn hơn rất nhiều.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố đa dạng ngành nghề và cũng là thành phố lớn trên cả nước nên có môi trường cạnh tranh quyết liệt, gay gắt, có số lượng doanh nghiệp rất lớn nên so với các tỉnh, thành phố khác, do đó mà doanh nghiệp có nhiều khó khăn hơn khi tiếp cận các dịch vụ công và thực hiện các thủ tục hành chính.
II/ Mục đích – Yêu cầu:
Đánh giá và triển khai các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số thành phần về Tiếp cận đất đai và sự ổn định mặt bằng sản xuất bằng những chính sách quản lý cũng như cải cách hành chính phù hợp nhằm làm tăng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh để xứng tầm là một trong những thành phố lớn, năng động và phát triển nhất trong cả nước.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Sở Tài nguyên và Môi trường không ngừng nâng cao nhận thức, xem việc cải thiện chỉ số Tiếp cận đất đai và sự ổn định mặt bằng sản xuất (chỉ số thành phần của PCI) là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ cải cách hành chính năm 2013 và những năm tiếp theo. Ngoài ra, Sở cũng sẽ phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể để kiện toàn và thống nhất quản lý đất đai trên địa bàn thành phố.
III/ Giải pháp và trọng tâm chỉ đạo điều hành:
Tài nguyên và môi trường là lĩnh vực lớn, phức tạp, bên cạnh những khó khăn khách quan, rõ ràng những hạn chế, yếu kém về phẩm chất, năng lực, thái độ với công việc của cán bộ ngành Tài nguyên và Môi trường là nguyên nhân chính dẫn đến những bức xúc của người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Ðể khắc phục tình trạng nêu trên, Sở Tài nguyên và Môi trường đang thực hiện nhiều giải pháp tích cực nhằm tăng cường quản lý đất đai, chống lãng phí trong sử dụng nguồn tài nguyên đất và góp phần tích cực vào việc cải thiện chỉ số thành phần tiếp cận đất đai trong nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư vào thành phố. Cụ thể như sau:
- Tiếp tục tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố thành phố ban hành các văn bản phù hợp với thực tiễn, đặc thù của thành phố theo hướng đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính.
+ Tăng cường kiểm tra, rà soát, đối thoại với các nhà đầu tư để kịp thời đề xuất, tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố những giải pháp tháo gỡ khó khăn về thủ tục phát sinh cho doanh nghiệp.
+ Tiếp tục thẩm định, tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện tốt công tác bồi thường đúng chính sách và đảm bảo quyền lợi cho người dân, tổ chức có đất thu hồi. Làm tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng là góp phần quan trọng đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án.
- Cần tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra công vụ và kiên quyết xử lý các cá nhân có hành vi nhũng nhiễu, lợi dụng công việc để trục lợi; thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
- Thực hiện các nội dung cải cách hành chính:
+ Cải cách hành chính theo đề án “một cửa liên thông” kết hợp với việc công khai minh bạch các thủ tục, thông tin trên trang Web của Sở về đất các dự án đã được giao, cho thuê, chuyển mục đích. Sở cũng công khai minh bạch về các thông tin cơ sở dữ liệu số về đất đai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin đất đai. Thời gian qua, công tác cải cách hành chính của Sở mặc dù có những chuyển biến rõ rệt nhưng vẫn còn hạn chế, nhiều cán bộ cố tình nhũng nhiễu, kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ để vòi vĩnh doanh nghiệp... Sở cần quyết liệt triển khai các giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong lĩnh vực này, góp phần cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
+ Chủ trương tiếp tục rà soát thủ tục hành chính, cắt giảm và bãi bỏ những thủ tục không cần thiết, giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan, đơn vị như tiếp tục cải cách trình tự thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời gian hoàn thành các thủ tục cho các doanh nghiệp đầu tư vào thành phố.
+ Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp GCNQSDĐ; soạn thảo Quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư, quy trình thủ tục giao đất, cho thuê đất (theo Nghị định 69 của Chính phủ và Thông tư 14 của Bộ Tài nguyên và Môi trường); soạn thảo Quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
- Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và công bố thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng. Rà soát, công khai các quy hoạch, rút ngắn thời gian giao đất cho nhà đầu tư.
+ Về mặt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải xác định được quy mô sử dụng ổn định diện tích đất sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là đất chuyên trồng lúa nước). Qua đó, khoanh định vùng, diện tích cần được bảo vệ nghiêm ngặt nhằm đảm bảo vấn đề an ninh lương thực và thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
+ Đối với các loại đất sản xuất kinh doanh, đất ở cần nghiên cứu địa hình, giao thông, đất đai quy hoạch mang tính tập trung quy mô lớn để thuận tiện đầu tư hạ tầng và xử lý môi trường. Không nên bám vào các trục giao thông chính vừa ảnh hưởng đến đất sản xuất nông nghiệp vừa khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Khẩn trương hoàn thành và công khai quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) của thành phố đã được Chính phủ phê duyệt; quy hoạch chi tiết các khu, cụm công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị, các khu đất quy hoạch phi nông nghiệp để chủ động thu hút đầu tư.
+ Tổ chức triển khai quy hoạch sử dụng đất các cấp.
+ Cần làm tốt các vấn đề về quy hoạch; về xây dựng và mô tả cụ thể các quy định liên quan; công tác giải phóng mặt bằng; xây dựng mô hình quản lý, phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị. Cụ thể, cần rà soát lại việc quản lý, sử dụng đất không để chồng chéo giữa công việc của các đơn vị, phải tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng kế hoạch sử dụng đất theo từng giai đoạn cụ thể để có sự phân bố hợp lý. Bên cạnh việc chú trọng chất lượng xây dựng quy hoạch chung, quy hoạch ngành, quy hoạch đất, quy hoạch sử dụng đất, cũng cần lắng nghe, linh động xử lý những đề xuất xác đáng của các nhà đầu tư đảm bảo hài hòa giữa các yếu tố, không làm ảnh hướng đến môi trường phát triển chung của thành phố.
- Đối với vấn đề thu hồi đất theo quy hoạch đã được duyệt, cần hoàn thiện cơ chế tổ chức, hoạt động của cơ quan có chức năng phát triển quỹ đất. Thực hiện các nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch sau khi quy hoạch - kế hoạch được phê duyệt và công bố mà chưa có dự án đầu tư; tư vấn bồi thường giải phóng mặt bằng, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tổ chức đấu thầu quyền sử dụng đất, quản lý quỹ đất thu hồi... Nguồn vốn cho đơn vị này hoạt động được cấp từ ngân sách, vốn vay và nguồn khác. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, thường xuyên kiểm tra, giám sát. Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái dịnh cư.
- Ngoài ra, cần có cơ chế xác định giá đất hợp lý, phù hợp với từng mục đích sử dụng, được cộng đồng chấp nhận để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Giải quyết hài hòa quyền lợi và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế. Đồng thời cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng xây dựng quy trình lập thủ tục, hồ sơ gọn nhẹ. Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý và sử dụng đất.
- Đẩy mạnh, hoàn tất công tác cấp giấy trên địa bàn thành phố;
- Giải quyết dứt điểm các khiếu nại đông người, khiếu nại kéo dài của người dân và doanh nghiệp…
- Cần nghiên cứu kỹ trình tự quy trình tạo điều kiện cho nhà đầu tư giảm bớt thời gian, thuận tiện thủ tục trong quá trình hợp tác. Cần tác động để các doanh nghiệp sớm làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai và tăng cường mối quan hệ giữa địa phương và khu công nghiệp.
- Xây dựng kế hoạch nâng cấp Trung tâm Phát triển quỹ đất bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đáp ứng chức năng tạo quỹ đất và phát triển quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất; phục vụ phát triển hạ tầng giao thông; phục vụ phát triển kinh tế xã hội; phục vụ sự nghiệp giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường và các nhu cầu khác của thành phố; ổn định thị trường bất động sản mà những năm trước chưa thực hiện được do thiếu vốn và vướng cơ chế.
VI/ Tổ chức thực hiện:
- Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng Kế hoạch trình Ủy ban nhân dân thành phố đồng thời phổ biến và phân công nhiệm vụ cụ thể đến từng phòng, ban, đơn vị trực thuộc Sở có liên quan triển khai thực hiện kế hoạch này.
- Thủ trưởng các phòng Quản lý sử dụng đất, phòng Kinh tế đất, phòng Kế hoạch, Trung tâm Phát triển quỹ đất, nghiêm túc triển khai thực hiện các nội dung liên quan đến công tác quản lý đất đai, xây dựng và chỉnh sửa những quy trình, thủ tục trong lĩnh vực đất đai theo Luật đất đai (sửa đổi) báo cáo định kỳ cho Ban Giám đốc Sở.
- Phòng Pháp chế, Văn phòng Sở phối hợp thực hiện rà soát các thủ tục hành chính, văn bản pháp luật liên quan đến đất đai và đề xuất những giải pháp thực hiện quy trình giải quyết hồ sơ cho doanh nghiệp theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Các phòng, ban, đơn vị xây dựng kế hoạch cụ thể của từng đơn vị mình bao gồm cả chỉ tiêu thời gian để hoàn thành nhằm có cơ sở đánh giá và báo cáo. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc báo cáo Ban Giám đốc Sở chỉ đạo hoặc tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố ban hành các văn bản pháp luật để thực hiện.
V/ Kiến nghị:
Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố sớm phê duyệt các văn bản quy phạm pháp luật, những kế hoạch, chủ trương do Sở tham mưu để giúp triển khai thực hiện tốt việc quản lý đất đai.